Giá trị văn chương của "Bình ngô đại cáo"
bản thêm đậm đà, giá trị văn chương càng nổi bật.
Đã có mấy cách giải thích về chữ Ngô trong Bình Ngô đại cáo, trong đó có người cho rằng Nguyễn Trãi sử dụng cách gọi của dân gian, “Nguyễn Trãi đã dùng một từ mà nhân dân quen dùng”, “để chỉ quân Trung Quốc, người Trung Quốc xấu xa, tàn ác, với hàm ý khinh bỉ, phê phán”(9). Cách hiểu này đầu tiên do một nhà nghiên cứu văn học dân gian nêu lên trong dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi (1980) và được một số nhà nghiên cứu tán đồng. Bản thân chúng tôi cũng có lúc tin như thế nhưng về sau, khi có điều kiện đọc trước tác của Nguyễn Trãi nhiều hơn, kết hợp với ngẫm nghĩ thêm thấy rằng cách giải thích đó chưa hợp lý. Trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi gọi kẻ thù bằng hai cách, Ngô và Minh, mỗi cách dùng một lần, Ngô dùng ở nhan đề và Minh ở câu Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân (Giặc Minh thừa dịp tàn hại dân ta- Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Sđd, tr.37). Chỉ căn cứ vào Bình Ngô đại cáo thì sự đối lập về sắc thái ý nghĩa của hai cách gọi chưa rõ, chưa đủ để kết luận, bởi vậy cần nhìn nhận thêm hai cách gọi này trong các trước tác khác của Nguyễn Trãi, có ý nghĩa nhất là những văn bản viết trước bản đại cáo, trong Quân trung từ mệnh tập. Chúng tôi đã khảo sát tỷ mỉ và trình bày trong một tiểu luận(10), ở đây chỉ nêu vắn tắt một số kết luận. Trong Quân trung từ mệnh tập cả hai cách gọi đều được sử dụng nhiều lần (Những văn bản sưu tập được có lẽ chưa đầy đủ - có một khoảng trống mấy năm không thấy có văn bản nào- bởi vậy thống kê số lần sử dụng hai từ này không phản ánh đúng tình hình). Tình trạng một văn bản dùng cả hai tên gọi hoặc chỉ dùng một trong hai đều phổ biến. Có những trường hợp rất đáng lưu ý. Chẳng hạn nếu cách gọi là Ngô mang ý nghĩa trên thì trong văn bản có tính chất đối nội như Tấu cáo văn (số 22) hẳn sẽ dùng cách định danh này, nhưng không, ở đây chỉ dùng cách gọi Minh (hai lần: Minh tặc, cường Minh). Tuy nhiên trường hợp có sức nặng nhất để phản bác ý kiến cho rằng đương thời cách gọi Ngô đã mang ý khinh bỉ chính là văn bản Tái dụ Vương Thông thư (số 35). Trong thư này Nguyễn Trãi chỉ dùng cách gọi Ngô, ba lần: Kim Ngô chi cường bất cập Tần (Nay Ngô mạnh không bằng Tần), phi Ngô quốc sở năng đoạt dã (thì Ngô làm sao có thể cướp được), cập Ngô quốc chi nhân (cũng như người Ngô). Vương Thông là tổng binh, là viên quan có quyền cao nhất trong đám tướng lĩnh viễn chinh ở nước ta, là võ tướng nhưng y thuộc loại thông hiểu chữ nghĩa. Đối với tên này, Nguyễn Trãi luôn chủ trương binh vận (thư cho Vương Thông nhiều nhất, xưng hô nhã nhặn, viết dài, dùng nhiều tri thức kinh điển để bàn bạc, thuyết phục). Bức thư này viết lúc thế thắng đã thuộc về ta, nhưng Nguyễn Trãi vẫn giữ cách ứng xử lịch sự với một đại quan của thiên triều- một kiểu “lạt mềm buộc chặt”, là cách khéo léo nhắc nhở hắn cách hành xử cho hợp với một đại nhân, đề phòng “chó cùng rứt dậu”. Là người hiểu sâu sắc nhân tình thế thái, lẽ nào Nguyễn Trãi hành xử bằng cách miệt thị tổ tiên kẻ mà mình đang áp dụng chiến thuật “tâm công”? Trong Ngữ văn 10, bức thư này được in gần kề Bình Ngô đại cáo, nếu giải thích chữ Ngô trong bản đại cáo là cách định danh biểu thị sự khinh bỉ thì không thuyết phục được người dạy- học.
Tóm lại, chỉ căn cứ vào Bình Ngô đại cáo thì sự đối lập sắc thái ý nghĩa giữa hai cách gọi Minh và Ngô không rõ, và tìm hiểu những văn bản trước đó được tập hợp trong Quân trung từ mệnh tập thì chưa có sự đối lập này.
Ngoài những trường hợp đã được các nhà nghiên cứu dẫn ra, chúng tôi thấy thêm vài trường hợp gọi người phương Bắc là Ngô với ý khinh thị. Đây là một câu trong bài Dăn đời phú (khuyết danh):
Báng đầu thằng trọc, không nể đầu ông sư; cứng cổ cứng đầu, ai xá những ngu dại - Vắng mặt thằng Ngô, lúc có mặt ông sứ, sấp mày sấp mặt vẫn nghe nhời nói xưa nay. Về đoản ngữ Vắng mặt thằng Ngô, lúc có mặt ông sứ, soạn giả Vũ Khắc Tiệp giải thích: “Khi trước nước ta phải phục về nước Tàu, khi có quan sứ ở nước Tàu sang, thì ta phải chiều chuộng rất cung kính, nhưng khi vắng