Giá trị văn chương của "Bình ngô đại cáo"
vậy bản đại cáo còn tích hợp nhiều giá trị khác, mà ở đây chúng ta quan tâm tìm hiểu là giá trị văn chương. Với đặc điểm của tư duy người đương thời, giá trị văn chương không ngăn trở, chế ước giá trị hành chính của văn bản, trái lại, như thực tế cho thấy, đã tạo thêm sức sống cho văn bản quan phương này.
Giá trị của Bình Ngô đại cáo trước hết là ở phương diện một trước tác chính luận, loại văn bản được đánh giá cao khi có hệ thống lập luận chặt chẽ, thể hiện sâu sắc và sinh động những vấn đề có ý nghĩa trọng đại của quốc gia dân tộc. Với Bình Ngô đại cáo, không phải nhà chuyên môn cũng dễ nhận ra được lôgic lớn của toàn bài và sự thứ lớp trong lập luận của từng phần. Tiêu biểu cho tầm khái quát của văn bản là đoạn đầu (Nhân nghĩa chi cử… quyết hữu minh trưng). Đoạn này như một định nghĩa rất tiêu biểu về quốc gia phong kiến, được đánh giá là cống hiến có ý nghĩa thế giới, khiến cho các thế hệ sau thán phục, tự hào. Đây là thành tựu đột xuất của lịch sử tư tưởng Việt Nam thời ấy, nhưng với Nguyễn Trãi, là thành tựu tất yếu vì tất cả mọi ý niệm đó đều đã có trong Quân trung từ mệnh tập, đây chỉ là tập đại thành. Thành quả đó do ba nguyên nhân. Trước hết do tài năng siêu việt của nhà trí thức-người anh hùng Nguyễn Trãi vì chính ông chứ không ai khác đã từ tầm cao thời đại, khái quát những giá trị to lớn của đất nước và đồng bào, của văn hoá Việt. Nguyên nhân thứ hai thuộc thời đại đầy biến động to lớn, khiến vấn đề dân tộc dân chủ được đặt ra cực kỳ gay gắt. Người trí thức Nguyễn Trãi đã được tôi luyện trong hoàn cảnh đó, ông nhìn thấy giang sơn và dân nước mình trong máu và nước mắt trước khi thấy họ trong hào quang chiến thắng. Với một chút hài hước có thể nói nguyên nhân thứ ba thuộc “công” của giặc Minh. Chính vì trong thời gian dài phải thường xuyên đương đầu với kẻ thù mạnh, thâm độc và gian xảo như giặc Minh khiến tư duy Nguyễn Trãi thêm sắc sảo. Chẳng hạn luận điểm vĩ đại của ông Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân chính là để phản bác luận điệu xảo trá của quân Minh, vạch rõ bộ mặt thật của chúng đằng sau chiêu bài nhân nghĩa “hưng diệt kế tuyệt”, tư tưởng này đã được bộc lộ cụ thể hơn ở Hựu đáp Phương Chính thư (số 5)(3), Tái phục Phương Chính thư (số 8).
Giá trị văn chương của Bình Ngô đại cáo thấm nhuần ở toàn bộ tác phẩm do người viết luôn nhìn nhận sự vật, hiện tượng cùng với một trí tuệ sắc sảo là một tâm hồn tinh nhạy, con tim giàu cảm xúc. Điều này thể hiện kín đáo nhưng mạnh mẽ ở ngay cả đoạn đầu, đoạn chứa đựng những khái quát về lịch sử dài lâu và quang vinh của đất nước, đoạn chứa đựng những tư tưởng lớn của một bản tuyên ngôn độc lập. Niềm tự hào to lớn, kiêu hãnh vì được làm con dân của một dòng giống anh hùng và văn hiến được tác giả thể hiện cô đúc qua những phó từ ngắn gọn: thực (Ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang = Nước Đại Việt ta thật là nước văn hiến)(4), ký (Sơn xuyên chi phong vực ký thù = Núi sông bờ cõi đã chia), diệc (Nam Bắc chi phong tục diệc dị = Phong tục Bắc Nam cũng khác). Ở những đoạn sau, khi lên án tội ác quân xâm lược, kể lại những khốn khó của nghĩa quân buổi đầu dựng nghiệp, miêu tả những bước đường thắng lợi của quân dân, đặc biệt đoạn bố cáo kết thúc chiến tranh… thì cảm xúc càng có điều kiện biểu lộ mạnh mẽ, phong phú.
Giá trị văn chương còn biểu hiện ở sự sáng tạo hình tượng và hình ảnh, điều này liên quan, hay nói đúng hơn là hệ quả của đặc điểm trên. Từ những năm tuổi trẻ đến những ngày tháng cuối đời, Nguyễn Trãi luôn biểu hiện một cốt cách nghệ sĩ lớn, chỉ có những điều kiện nào đó buộc ông phải tiết chế phẩm chất đẹp đẽ này, còn khi tình huống cho phép, ông tự bộc lộ một cách tự nhiên sinh động. Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần nhân văn sâu sắc của Bình Ngô đại cáo có sức tác động mạnh mẽ, có sự trường tồn một phần lớn là do điều này. Nguyễn Trãi diễn tả tư tưởng bằng những hình tượng sinh động, thật khó phân định đâu là từ nguồn sách vở, đâu là sáng tạo riêng. Biểu hiện sức mạnh to lớn của nghĩa quân, ông không liệt kê số liệu mà dựng hình ảnh Ẩm