Tìm hiểu bài “việt bắc” của tố hữu
không bao giờ phai nhạt ấy lại là biểu tượng cho tấm lòng son sắt thuỷ chung của đồng bào các dân tộc Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến. Cảm động nhất vẫn là hình ảnh “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Cuộc chia tay không nói nên lời. Nó lưu luyến bịn rịn.Ta cũng chẳng nghe tiếng họ nói những gì với nhau. Chỉ có đôi bàn tay nắm lấy bàn tay và nói giùm tất cả.
Tạo ra sự đối đáp, nhà thơ đã dàn dựng được cảnh chia tay. Nhưng đó chỉ là hình thức kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu chính là sự thống nhất của tình cảm trong tiếng nói chung.
- Đó là cách sử dụng ngôn ngữ diễn tả cuộc chia tay.
Nhà thơ sử dụng rất sáng tạo đại từ “mình”
+ “Mình” chỉ bản thân người nói (ngôi thứ nhất) nhưng ở văn cảnh này “mình” còn chỉ đối tượng giao tiếp. Một đối tượng gần gũi, gắn bó, thân thiết, người bạn đời yêu mến. “Mình” đã chuyển sang ngôi thứ 2 nhằm diễn tả quan hệ tình yêu đôi lứa, tình vợ chồng. “Mình” được dùng ở nghĩa thứ hai (đối tượng trực tiếp trò chuyện). Nó góp phần tạo ra mối quan hệ gắn bó giữa hai người – Anh cán bộ kháng chiến và đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Ngôn ngữ vừa giản dị, mộc mạc diễn tả tình cảm chân thật, cuộc chia tay bịn rịn, lưu luyến đến bâng khuâng.
- Để diễn tả cuộc chia tay đầy lưu luyến, nhà thơ sử dụng câu thơ lục bát cân xứng, nhịp nhàng phù hợp với tâm trạng bâng khuâng của con người trong cuộc tiễn đưa:
- Mình về / mình có / nhớ chăng
Mười lăm năm ấy / thiết tha mặn nồng
Mình về / mình có / nhớ không
Nhìn cây nhớ núi / nhìn sông nhớ nguồn
- Tiếng ai / tha thiết / bên cồn
Bâng khuâng trong dạ / bồn chồn bước đi
Áo chàm / đưa buổi / phân li
Cầm tay nhau biết / nói gì hôm nay.
Sự ngắt nhịp ấy chính là nhịp điệu tâm hồn. Nó tạo ra sự cộng hưởng, đồng vọng của cả người ở, người đi. Đó là nỗi nhớ da diểt, mênh mang với thiên nhiên, con người, với cách mạng và kháng chiến.
Trả Lời Với Trích Dẫn
Diễn đàn kiến thức
Lê Anh
11-24-2009, 10:05 PM
2. Nỗi nhớ da diết về thiên nhiên con người Việt Bắc
- Trong đoạn trích có hơn 30 từ “nhớ” (cụ thể là 35 từ)
- Tác dụng của việc lặp lại nhiều lần từ “nhớ”.
+ Về tâm lí, một hiện tượng, một âm thanh, một từ xuất hiện nhiều lần trước mắt ta, buộc ta phải chú ý.
+ Về ý nghĩa “nhớ” gắn liền với đối tượng cụ thể. Nó khắc sâu trong tâm trạng người đọc, người nghe về sắc thái tình cảm của con người. Khi diễn tả nỗi nhớ của anh cán bộ kháng chiến, khi là sự đồng vọng cùng nhớ về sự kiện cách mạng, kháng chiến. Nỗi nhớ mang nhiều cung bậc.
- Đặc sắc của đoạn thơ là ở chỗ Tố Hữu tạo ra lối đối đáp trong tưởng tượng. Nhà thơ để Việt Bắc hỏi:
+ Mình đi, có nhớ?
+ Mình về, có nhớ?
Mỗi cụm từ ấy xuất hiện tới ba lần. Nó xoáy sâu vào lòng người, gợi nỗi nhớ như dòng chảy. Thiên nhiên Việt Bắc hiện ra:
“Trám bùi”, “măng mai”
+ Những mái nhà “hắt hiu lau xám”
+ Những địa danh cụ thể: “Tân Trào”, “Hồng Thái”
+ Những di tích lịch sử “mái đình, cây đa”
Ba tiếng “mình” trong một câu thơ mang lại cách hiểu khác nhau. Theo cách hiểu thông thường mình (1), mình (2) chỉ người ra đi. Mình (3) chỉ người ở lại. Nhưng cũng có cách hiểu mình (1), mình (2), mình (3) chỉ là một đối tượng: người ra đi. Người ra đi tự hỏi mình, tự đối thoại với mình để đừng bao giờ quên Việt Bắc. Cũng có thể người ở lại nhắc người ra đi đừng có quên những ngày tháng, đừng quên chính mình, đánh mất mình. Thơ như thế thật dung dị mà sâu sắc.
Đáp lại sự khẳng định:
Ta với mình, mình với ta
Mình ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Cũng là ba tiếng “mình”. Mình (1) và (2) chỉ người ra đi. Mình (3) chỉ người ở lại. Tiếng gọi ấy gần gũi, thân thiết quá. Ta nghe như người yêu nói với người yêu, tiếng của người bạn đời yêu dấu, tiếng của vợ, của chồng. Nhưng ba tiếng “mình” ấy cũng để chỉ người ra đi. Lời hứa trở nên mặn mà, đinh ninh, sâu sắc. Nhân vật trữ tình tự phân thân, lại hoà làm một xoáy sâu vào tiếng nói của tâm trạng để tìm sự đồng vọng của người đọc người nghe.
- Đó